Phán quyết của PCA và hệ lụy với Việt Nam
Lợi rõ ràng: Tòa Trọng tài (PCA) tuyên bố "đường chín đoạn" của Trung Quốc là không có cơ sở pháp lý, đồng thời Trung Quốc "không có chủ quyền lịch sử" tại Biển Đông.
Chỉ có vậy!
Phán quyết về những nội dung khác, dù bất lợi cho Trung Quốc nhưng không hẳn có lợi cho Việt Nam , có nội dung hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam . Một số nội dung phán quyết cũng không hoàn toàn có lợi cho Philippines .
Đối với 7 đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng ở Trường Sa, PCA tuyên rằng Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập và Gaven là các cấu trúc nổi trên mặt nước vào lúc thủy triều lên cao (đá), có lãnh hải 12 hải lý, còn Xu Bi, Tư Nghĩa, Vành Khăn là các cấu trúc chìm khi thủy triều lên (bãi, không có 12 hải lý lãnh hải, chỉ có 500m vùng an toàn. Việc PCA tuyên rằng 7 đảo nhân tạo này không có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (EEZ) và thềm lục địa không có nhiều ý nghĩa, vì đó là điều hiển nhiên, chiếu theo Công ước quốc tế về luật biển (Công ước). Tuy nhiên, phán quyết rằng một số trong các thực thể địa lý này là bãi lúc nổi lúc chìm sẽ phương hại đến đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam đối với chúng, ảnh hưởng cả đến một số thực thể Việt Nam đang đóng giữ như đá Tốc Tan, đá Núi Le, đá Tiên Nữ (sẽ phân tích sau). Tất cả các thực thể này nằm trong khoảng cách 200 hải lý, tính từ đường cơ sở của Philippines .
Theo PCA, Trung Quốc đã: Can thiệp vào việc thăm dò dầu khí của Philippines tại Bãi Cỏ Rong; Chủ ý cấm các tàu Philippines đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines tại bãi Vành Khăn và bãi Cỏ Mây, bảo vệ cho và không ngăn ngừa ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá tại các nơi này; Xây dựng các công trình và đảo nhân tạo tại Vành Khăn mà không được sự đồng ý của Philippines. Do vậy PCA kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này. Kết luận này trái với tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam .
PCA kết luận rằng, tất cả các cấu trúc nổi tại Trường Sa (Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây…) đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra EEZ hoặc thềm lục địa. Phán quyết này có phần không lợi cho Việt Nam, trong trường hợp Việt Nam đòi hỏi các đảo Việt Nam đang đóng giữ như Trường Sa, Song Tử Tây, Sinh Tồn… phải có EEZ. Nhưng đồng thời, Trung Quốc (và Đài Loan Trung Quốc) cũng không thể dùng 200 hải lý EEZ quanh đảo Ba Bình mà họ cho là có chủ quyền để tạo nên vùng tranh chấp với EEZ và thềm lục địa tính từ đường cơ sở bờ biển Việt Nam nữa. Các vùng biển tranh chấp bị thu hẹp về phạm vi 12 hải lý quanh mỗi đảo đá tại Trường Sa.
Có một phán quyết không hoàn toàn có lợi cho Philippines , đó là: “Tòa Trọng tài cũng kết luận rằng Công ước không quy định việc một nhóm các đảo như quần đảo Trường Sa sẽ có các vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất”. Tuy nhiều phán quyết của PCA gián tiếp đưa đến suy luận rằng phần lớn khu vực quần đảo Trường Sa nằm trong phạm vi EEZ của Philippines, có lợi cho Philippines, nhưng phán quyết nói trên của PCA khiến Philippines không thể quy gần như toàn bộ quần đảo Trường Sa thành một thể thống nhất mà họ gọi là Nhóm đảo Kalayaan, chỉ có thể đòi chủ quyền đối với từng thực thể địa lý ở đây.
Bản đồ tranh chấp tại khu vực quần đảo Trường Sa (8 điểm đỏ góc dưới bên trái ảnh là khu vực thềm lục địa Việt Nam, có các Nhà giàn DK1 trên các bãi cạn Phúc Tần, Huyền Trân, Tư Chính..., hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam)
Cùng với việc đánh giá các phán quyết của PCA, cần quan tâm đến các lập luận của PCA để dẫn đến các phán quyết ấy.
Khi xem xét hồ sơ lịch sử để xác định Trung Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở Biển Đông trước khi Công ước có hiệu lực hay không, PCA lưu ý rằng có chứng cứ cho thấy người đi biển và ngư dân của Trung Quốc, cũng như của các nước khác, trong lịch sử đã sử dụng các đảo ở Biển Đông. Tuy nhiên, Tòa quyết định là trước khi có Công ước, các vùng biển ở Biển Đông bên ngoài vùng lãnh hải về pháp lý đều là một phần của vùng biển quốc tế, tại đó tàu thuyền của bất kỳ quốc gia nào đều có thể qua lại và đánh cá một cách tự do. Vì vậy, Tòa đã kết luận rằng việc Trung Quốc qua lại và đánh cá trong lịch sử ở vùng biển của Biển Đông đã thể hiện các quyền tự do trên biển cả, thay vì một quyền lịch sử, và rằng không có chứng cứ nào cho thấy rằng trong lịch sử Trung Quốc đã một mình thực hiện việc kiểm soát các vùng biển ở Biển Đông hay ngăn cản các quốc gia khác khai thác những tài nguyên của mình. PCA có lập luận như vậy khi xem xét các hồ sơ của Việt Nam ?
Theo Điều 121 của Công ước, các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và có thềm lục địa. PCA giải thích Điều 121 và kết luận rằng các quyền có vùng biển của một cấu trúc phụ thuộc vào: Năng lực khách quan của cấu trúc; Trong điều kiện tự nhiên, nó có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc vào tài nguyên bên ngoài, và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác. PCA thấy rằng nhiều cấu trúc tại Trường Sa hiện đang được một hoặc nhiều quốc gia kiểm soát và họ đã xây dựng các cấu trúc và duy trì nhân lực tại chỗ. PCA kết luận rằng việc hiện diện của các nhân viên công quyền trên nhiều cấu trúc không chứng minh được khả năng của các cấu trúc này, trong điều kiện tự nhiên, để duy trì cộng đồng cư dân ổn định và cho rằng các bằng chứng lịch sử về việc định cư hoặc đời sống kinh tế có ý nghĩa hơn đối với năng lực khách quan của các cấu trúc. Qua đánh giá hồ sơ lịch sử, PCA thấy rằng các đảo Trường Sa trong lịch sử từng được các nhóm nhỏ ngư dân từ nhiều nước sử dụng, một số công ty khai thác phân chim và đánh cá của Nhật đã có hoạt động tại đây vào những năm 1920 và 1930. PCA kết luận rằng, việc sử dụng tạm thời các cấu trúc của ngư dân không dẫn đến việc cư ngụ của một cộng đồng ổn định và tất cả các hoạt động kinh tế trong lịch sử đều chỉ có tính chất khai thác. Theo đó, PCA kết luận rằng tất các cấu trúc nổi tại quần đảo Trường Sa đều là “đảo đá” về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lập luận này của PCA, trong hành trình đòi công nhận chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa.
Xem xét quyền đánh cá truyền thống tại bãi Scarborough, PCA kết luận rằng ngư dân từ Philippines, cũng như Trung Quốc và các nước khác, đã đánh cá tại bãi Scarborough từ lâu và có quyền đánh cá truyền thống tại khu vực này. Do bãi cạn Scarborough nổi trên mặt nước lúc thủy triều lên, cấu trúc này có quyền có lãnh hải, vùng nước xung quanh cấu trúc này không tạo thành vùng đặc quyền kinh tế và quyền đánh cá truyền thống không bị mất đi do Công ước. Tòa xác định rằng Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi ngăn chặn tiếp cận bãi cạn Scarborough sau tháng 5 năm 2012. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thấy rằng Tòa cũng sẽ có kết luận tương tự đối với quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc nếu Philippines có hành động ngăn cản việc đánh cá của công dân Trung Quốc tại bãi Scarborough. Với phán quyết trên của PCA, Trung Quốc có cớ lưu đội tàu tại Scarborough và nhiều bãi đá khác tại quần đảo Trường Sa, tiền đề để không chế, kiểm soát những bãi đá đó.
PCA đã khẳng định, “Toà không phán quyết các vấn đề nào liên quan đến chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ đất liền và không tiến hành phân định bất kỳ một ranh giới trên biển nào giữa các bên của vụ kiện”.Phán quyết ngày 12/7/2016 của PCA chưa giải quyết được những mâu thuẫn, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Việc Trung Quốc không tham gia vụ kiện, phản bác toàn bộ phán quyết của PCA cho thấy vũ khí pháp lý có tác dụng không nhiều trong việc bảo vệ chủ quyền của các quốc gia. Như facebooker Tâm Minh Nguyễn nói, giá trị cao nhất của một phán quyết của PCA chỉ là làm mất uy tín của một quốc gia đã vi phạm chính những điều ước quốc tế mà họ ký kết, tạo dư luận đồng thuận của quốc tế đối với quốc gia bị xâm phạm chủ quyền biển đảo.
Việt Nam có thể sử dụng kinh nghiệm của Philippines tại vụ kiện vừa qua trong đấu tranh đòi công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Dùng con đường pháp lý để đòi chủ quyền biển, đảo là cần thiết, nhưng cần hết sức thận trọng. Cửa thắng không chắc chắn, nhưng có thắng cũng khó giành lại chủ quyền thực tế, nếu trong tay chỉ có những phán quyết như của PCA.
GHI CHÚ:
Tuyên bố ngày 12/51977 của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VIệt Nam:
1. Lãnh hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của Việt Nam tính từ ngấn nước thuỷ triều thấp nhất trở ra.
...
5. Các đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam ở ngoài vùng lãnh hải nói ở Điều 1 có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng như đã quy định trong các điều 1, 2, 3, và 4 của Tuyên bố này.
Theo Tuyên bố này, các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa có có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. http://bienphongvietnam.vn/van-ban-phap-luat/van-kien-phap-ly-dieu-uoc-quoc-te/178-vankien02.html
Tuyên bố ngày 12/111982 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam tiếp tục nêu quan điểm của Tuyên bố ngày 12/5/1977: 4. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể trong một văn kiện tiếp theo phù hợp với điểm 5 của bản Tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1977 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 5. Vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo của Việt Nam là nội thủy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Theo Luật Biển Việt Nam, được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013, đã có sự điều chỉnh, không còn khẳng định mọi đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nhưng Luật Biển Việt Nam cũng không loại trừ việc một số đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa có thể có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Điều 20. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo, quần đảo: 1. Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; 2. Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Comments
Post a Comment